![]() |
Theo Báo cáo Chainalysis Crypto Crime Report 2024, tổng giá trị tiền số có nguồn gốc bất hợp pháp được “rửa” trong năm 2023 đạt hơn 22 tỉ USD, và tính từ năm 2019 đến nay đã vượt 120 tỉ USD. Các đồng tiền phổ biến nhất trong hoạt động rửa tiền là Bitcoin (BTC), Tether (USDT) và Ethereum (ETH) nhờ tính thanh khoản cao và khả năng chuyển đổi dễ dàng.
Tại Việt Nam, các chuyên gia cho rằng nguy cơ rửa tiền qua tài sản mã hóa đang hiện hữu và có xu hướng tăng nhanh cùng với tốc độ phổ cập công nghệ số. Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia có tỷ lệ người sở hữu tiền số cao nhất thế giới, với hàng chục sàn giao dịch hoạt động trực tuyến, trong đó nhiều nền tảng chưa được cấp phép hoặc không chịu sự giám sát của cơ quan quản lý. Điều này khiến việc kiểm soát dòng tiền ảo trở nên khó khăn, đặc biệt khi các giao dịch diễn ra xuyên biên giới, ẩn danh và không qua hệ thống ngân hàng truyền thống.
Một số vụ việc gần đây cho thấy tội phạm đã lợi dụng hình thức đầu tư tiền ảo, huy động vốn qua mạng hoặc sàn giao dịch tự phát để “rửa” nguồn tiền bất hợp pháp, hợp thức hóa lợi nhuận rồi rút ra dưới dạng tiền pháp định. Ngoài ra, việc sử dụng các công cụ ẩn danh như ví điện tử phi tập trung, sàn giao dịch ngang hàng (P2P) hay các dịch vụ “mixing” giúp làm mờ dấu vết giao dịch cũng khiến cơ quan chức năng khó phát hiện dòng tiền đáng ngờ.
Ông Tô Trần Hòa, Phó Trưởng ban Phát triển thị trường chứng khoán (Ủy ban Chứng khoán Nhà nước), cho biết các đối tượng phạm tội hiện lợi dụng công nghệ để qua mặt hệ thống xác thực bằng cách sử dụng giấy tờ giả, hoặc thực hiện giao dịch tài sản mã hóa qua “chợ đen”, thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt. Một số trường hợp còn “trộn” tài sản mã hóa từ nhiều nguồn, chia nhỏ giao dịch dưới ngưỡng cảnh báo hoặc lập dự án “sạch” để hợp thức hóa dòng tiền phi pháp.
Thượng tá Đàm Văn Minh, Cục An ninh nội địa (Bộ Công an), cho biết Việt Nam hiện có khoảng 26 triệu tài khoản tài sản số do người Việt sở hữu. Dù chưa ghi nhận trường hợp nào dùng tài sản số để tài trợ khủng bố, nhưng rủi ro rửa tiền vẫn ở mức đáng lo ngại. Ông cho rằng cần đánh giá cụ thể năng lực tổ chức và mức độ rủi ro của từng nhóm khách hàng, thay vì chỉ đánh giá chung chung như hiện nay.
PGS-TS Nguyễn Hữu Huân (Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh) cho rằng rủi ro rửa tiền trên thị trường tài chính luôn hiện hữu, đặc biệt trong lĩnh vực tiền số đang có xu hướng gia tăng. Ông phân tích, với các đồng tiền số giao dịch qua sàn tập trung, nếu sàn tuân thủ đúng quy định phòng, chống rửa tiền, thì cơ quan quản lý có thể truy vết và ngăn chặn hoạt động phi pháp. Tuy nhiên, những giao dịch trên hệ thống blockchain, ví ẩn danh hoặc giao dịch cá nhân sẽ rất khó phát hiện.
PGS-TS Nguyễn Hữu Huân nhấn mạnh Việt Nam đã có đầy đủ các quy định về phòng, chống rửa tiền trong hệ thống ngân hàng, công ty tài chính và thị trường tài sản mã hóa. Điều quan trọng là các doanh nghiệp, tổ chức tham gia phải tuân thủ nghiêm quy định hiện hành, đồng thời ứng dụng công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, máy học để phát hiện giao dịch đáng ngờ và kịp thời báo cáo cơ quan chức năng.
Trên thế giới, nhiều quốc gia đã ban hành các quy định chặt chẽ nhằm kiểm soát hoạt động rửa tiền qua tiền số. Liên minh châu Âu đã áp dụng Chỉ thị chống rửa tiền thứ năm (5AMLD), Singapore ban hành Đạo luật Dịch vụ thanh toán, trong khi Hồng Kông sửa đổi Pháp lệnh chống rửa tiền và tài trợ khủng bố để tăng cường giám sát các nền tảng giao dịch tài sản mã hóa.
Theo các chuyên gia, cùng với việc hoàn thiện hành lang pháp lý, Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tăng cường giám sát kỹ thuật số và nâng cao năng lực của các tổ chức tài chính, nhằm đảm bảo thị trường tài sản mã hóa phát triển minh bạch, an toàn và bền vững.









Bình luận