Khung pháp lý tiên phong, hướng đến tự chủ AI
Chiều 10/12, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Trí tuệ nhân tạo, với 429/434 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 90,70%. Với việc thông qua này, Việt Nam trở thành một trong số ít quốc gia có khung pháp lý toàn diện về AI.
![]() |
| Kết quả biểu quyết thông qua Luật Trí tuệ nhân tạo. |
Với tỉ lệ tán thành cao, Quốc hội đã khẳng định sự đồng thuận mạnh mẽ đối với sự cần thiết ban hành Luật AI, đạo luật được đánh giá mang tính bước ngoặt, tạo hành lang pháp lý tiên phong giúp Việt Nam bắt kịp xu thế phát triển AI toàn cầu và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên số.
Luật Trí tuệ nhân tạo gồm 35 điều, được xây dựng theo hướng “quản lý để phát triển”, cân bằng giữa kiểm soát rủi ro và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Luật xác định con người là trung tâm, yêu cầu AI phải phục vụ con người, không thay thế con người và mọi quyết định quan trọng đều phải có sự giám sát của con người.
Đạo luật đặt nền tảng cho chiến lược tự chủ AI của Việt Nam, từ hạ tầng tính toán, dữ liệu đến năng lực nghiên cứu. Luật cho phép Nhà nước đầu tư trung tâm tính toán AI quốc gia và hình thành hệ thống dữ liệu mở có kiểm soát, nhằm giảm chi phí tính toán, mở rộng tiếp cận dữ liệu và khuyến khích doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào hệ sinh thái AI.
Để thúc đẩy phát triển, Luật quy định thành lập Quỹ Phát triển AI quốc gia, triển khai AI Voucher hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng AI và thiết lập sandbox thử nghiệm dành cho các mô hình AI nhạy cảm. Đây là các công cụ giúp giảm rủi ro thử nghiệm, hạ chi phí tiếp cận công nghệ và khuyến khích startup công nghệ cao sáng tạo trong không gian pháp lý linh hoạt.
Luật cũng tiếp cận các vấn đề mới nổi như nội dung sinh ra bởi AI (AI-generated content), đạo đức thuật toán và trách nhiệm của nền tảng cung cấp dịch vụ AI xuyên biên giới. Các quy định này giúp Việt Nam hội nhập sâu hơn với chuẩn mực quốc tế, đồng thời bảo đảm chủ quyền số.
Tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, chọn mô hình kết hợp phù hợp với Việt Nam
![]() |
| Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng báo cáo về việc tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo, |
Trước đó, trình bày trước Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh AI là lĩnh vực mới, phát triển nhanh và có tác động sâu rộng đến kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quản trị quốc gia. Vì vậy, việc sớm ban hành Luật AI là cần thiết để tạo khuôn khổ pháp lý cho phát triển bền vững, chủ động nắm bắt cơ hội và quản trị rủi ro.
Trong quá trình xây dựng, Chính phủ đã nghiên cứu kỹ kinh nghiệm quốc tế: châu Âu quản lý chặt và tập trung vào an toàn; Nhật Bản chủ yếu thúc đẩy phát triển; Hàn Quốc kết hợp cả hai nhưng phần an toàn nhẹ hơn. Việt Nam lựa chọn cách tiếp cận kết hợp có chọn lọc: an toàn ở mức cao hơn Hàn Quốc nhưng nhẹ và ít thủ tục hơn châu Âu, trong khi chính sách thúc đẩy phát triển mạnh mẽ như Nhật Bản. Bộ trưởng khẳng định đây là hướng đi phù hợp điều kiện trong nước.
Dự thảo luật được thiết kế như một luật khung ngắn gọn, quy định nguyên tắc và khuôn khổ quản lý nhà nước, còn các nội dung kỹ thuật sẽ được quy định tại nghị định. Luật không điều chỉnh mô hình AI vốn là sáng tạo của doanh nghiệp mà chỉ điều chỉnh đầu ra, hành vi sử dụng và rủi ro xã hội, theo đúng thông lệ quốc tế nhằm không cản trở đổi mới sáng tạo.
Về phân loại rủi ro, dự thảo giảm từ 4 xuống 3 mức: thấp, trung bình và cao, kèm theo quy định về các hành vi bị cấm. Đối với hệ thống AI rủi ro cao, doanh nghiệp không phải xin phép trước nhưng phải chuẩn bị hồ sơ đánh giá an toàn và sẵn sàng xuất trình khi cơ quan quản lý thực hiện hậu kiểm.
Về bồi thường thiệt hại, dự thảo bỏ mức phạt theo doanh thu. Luật quy định bồi thường toàn bộ thiệt hại và có chế tài đình chỉ cung cấp dịch vụ nếu gây hậu quả nghiêm trọng. Mặc dù hệ thống AI rủi ro cao không được xếp vào nhóm “nguồn nguy hiểm cao độ” vì chỉ là phần mềm, không gây rủi ro vật lý trực tiếp, dự thảo vẫn bổ sung cơ chế bồi thường nghiêm ngặt, áp dụng ngay cả khi không có lỗi, nhằm tăng cường bảo vệ người dân.
Luật đồng thời đưa ra các chính sách thúc đẩy đổi mới sáng tạo: phát triển hạ tầng AI, mở rộng dữ liệu dùng chung, hỗ trợ thử nghiệm mô hình mới, ưu đãi doanh nghiệp AI, phát triển nhân lực và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các chính sách này nhằm xây dựng hệ sinh thái AI tự chủ, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong thời đại số.
Thu Uyên (Tổng hợp)



Bình luận