![]() |
| Toàn cảnh diễn đàn. |
Việt Nam đang bước vào một giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ, hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045. Trong tiến trình đó, tài sản số và tài sản mã hóa được xác định là một trong 11 công nghệ chiến lược, giữ vai trò then chốt cho tăng trưởng kinh tế. Mới đây, Nghị quyết 05/2025/NQ-CP về thí điểm thị trường tài sản mã hóa đã tạo thêm một cú hích quan trọng cho nền kinh tế.
Doanh nghiệp Việt Nam xem tài sản số là công cụ để minh bạch hóa dòng tiền
Phát biểu tại Diễn đàn quản trị doanh nghiệp Việt Nam 2025 (VCG Forum 2025) với chủ đề “Khai phá tiềm năng tài sản số”, ông Nguyễn Đức Thuận - Chủ tịch Hội các Nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam (VACD) cho biết, Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên vươn mình mạnh mẽ với mục tiêu trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045.
“Để hiện thực hóa khát vọng đó, Việt Nam cần những động lực tăng trưởng mới, những thị trường mới và một trong số đó là tài sản số, tài sản mã hóa”, ông Thuận nói.
Theo ông Thuận, tài sản số giờ đây không còn là câu chuyện của những cơn “sốt ảo” mà đang được định hình trở thành một phần cốt lõi của nền kinh tế số toàn cầu.
Tại Việt Nam, tài sản số đang có những bước tiến ngoạn mục với những tín hiệu tích cực từ hành lang pháp lý, chính sách, điển hình như Nghị quyết 05 của Chính phủ về thí điểm thị trường tài sản mã hóa, hay những chỉ đạo quyết liệt của Tổng Bí thư về việc Việt Nam “không thể đứng ngoài xu thế thời đại”.
![]() |
| Ông Nguyễn Đức Thuận - Chủ tịch Hội các Nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam (VACD) phát biểu tại diễn đàn. |
Chỉ ít ngày nữa, kể từ ngày 1/1/2026, tài sản số sẽ chính thức bước ra khỏi “vùng xám” để trở thành một kênh dẫn vốn chính thống và hiệu quả cho nền kinh tế.
“Trước thời khắc lịch sử này, chúng ta sẽ không chỉ bàn luận về việc quản trị tài sản số như thế nào mà quan trọng hơn là làm sao để khai phá tối đa giá trị mà nó mang lại cho doanh nghiệp và cho quốc gia”, Chủ tịch VACD nhận định,
Tuy nhiên, cơ hội mà tài sản số mở ra là rất lớn, nhưng thực tế doanh nghiệp đang phản ứng ra sao? Ông Thuận chỉ ra, theo khảo sát, hơn một nửa doanh nghiệp tin rằng “Tài chính - Kế toán” sẽ là lĩnh vực được ứng dụng hiệu quả nhất, theo sát là lĩnh vực “Quản lý tài sản và quyền sở hữu”.
Điều này cho thấy: Doanh nghiệp Việt Nam không nhìn tài sản số như một sản phẩm đầu cơ, mà xem đó là công cụ để minh bạch hóa dòng tiền và số hóa quyền sở hữu tài sản thực.
Khi được hỏi về kế hoạch triển khai, bên cạnh nhóm tiên phong, một bộ phận không nhỏ vẫn đang chờ khung pháp lý hoàn thiện. Song song là nỗi lo về nhân lực hay an ninh mạng.
“Điều này gửi đi một thông điệp mạnh mẽ: Doanh nghiệp không sợ công nghệ, không sợ cạnh tranh, họ cần một sân chơi minh bạch”, ông Thuận nhấn mạnh.
Tiền năng của tài sản số tại Việt Nam
Trong khuôn khổ diễn đàn, ông Nguyễn Phú Dũng - đồng sáng lập Tập đoàn PILA và thành viên Hội đồng đầu tư quỹ Solaris Impact thuộc Pacific Bridge Capital tin đã chỉ ra nghịch lý của tiềm năng tại Việt Nam.
Đó là đà tăng trưởng đang phần nào bị kìm hãm bởi dòng vốn tắc nghẽn, khi vốn thường bị “chôn” trong bất động sản và khó tiếp cận cho các dự án đổi mới và bền vững.
Chìa khóa để giải quyết vấn đề này là xây dựng Niềm tin số (Digital Trust) - một hạ tầng cốt lõi cho quốc gia số. Theo ông Dũng, niềm tin truyền thống dựa trên cá nhân hay quan hệ không thể mở rộng quy mô trong thế giới số. Nhà đầu tư thời đại mới không còn "tin vào lời kể" hay giấy tờ cam kết, họ cần những bằng chứng cụ thể và có thể xác minh.
Niềm tin số phải được xây dựng dựa trên dữ liệu minh bạch và có thể kiểm chứng độc lập, bao gồm dữ liệu thời gian thực, dòng tiền thực, khả năng kiểm chứng độc lập và dựa trên hạ tầng quốc gia.
![]() |
| Ông Nguyễn Phú Dũng - đồng sáng lập Tập đoàn PILA và thành viên Hội đồng đầu tư quỹ Solaris Impact thuộc Pacific Bridge Capital chia sẻ tại sự kiện, |
Để quản trị thị trường tài sản số, bắt buộc phải định danh đầy đủ các yếu tố để hình thành bằng chứng số bất biến. Trong đó, bốn yếu tố định danh bắt buộc là: Con người (Ai sở hữu?), Vật thể (Tài sản là gì?), Địa điểm (Ở đâu?), và Hoạt động (Dòng giá trị được tạo ra thế nào?).
Từ đó, blockchain trở thành lớp tin cậy cho nền kinh tế số, giữ gìn sự thật của dữ liệu, bảo vệ tính toàn vẹn và minh bạch, đồng thời loại bỏ rủi ro can thiệp thủ công.
Ông Dũng cũng cho biết, tài sản số được chia thành hai nhóm, bao gồm tài sản số thuần túy (Digital-native Assets) và tài sản số được mã hóa (Tokenized Real-world Assets – RWA).
Trong hai loại tài sản số này, thế mạnh của Việt Nam nằm ở RWA, thông qua việc mã hóa, “hóa lỏng” tài sản thực là những thứ Việt Nam sở hữu độc nhất, chẳng hạn như Vịnh Hạ Long, Đảo Phú Quốc hay những món ăn truyền thống dân tộc.
“Nếu Việt Nam không tận dụng thế mạnh này thì rất khó để đuổi kịp thế giới”, ông Dũng nhấn mạnh. Bối cảnh pháp lý đang ủng hộ Việt Nam theo đuổi lợi thế này, khi Đảng và Chính phủ thúc đẩy mạnh mẽ hành lang pháp lý và xây dựng nền tảng kiến trúc dữ liệu quốc gia.
Trong đó, công nghệ blockchain được xem là một trong những công nghệ chiến lược quốc gia và hệ thống blockchain quốc gia là hạ tầng cần thiết để làm chủ và triển khai tài sản số. Nền tảng blockchain quốc gia sẽ tạo ra lớp dữ liệu tin cậy, từ đó sinh ra các lớp tài chính số và kinh tế số.
Ông Dũng nhận định, cơ hội tại Việt Nam là rất lớn, bao gồm bất động sản, năng lượng điện gió, logistics, tài sản vô hình như quyền khai thác du lịch hay sở hữu trí tuệ nội dung số. Tất cả những đặc trưng này hoàn toàn có thể chuyển đổi thành tài sản số để kêu gọi vốn đầu tư.
Cuối cùng, ông Dũng kết luận rằng tài sản số không chỉ là câu chuyện của công nghệ mã hóa mà là câu chuyện của niềm tin số. Niềm tin số xuất phát từ dữ liệu, dữ liệu xuất phát từ định danh, và định danh dựa trên một nền tảng tin cậy. Khi dữ liệu minh bạch, niềm tin sẽ tự hình thành và dòng vốn sẽ tự tìm đến, tạo ra sự thịnh vượng bền vững cho Việt Nam.
Thu Hương




Bình luận