Thúc đẩy chuyển đổi số và giải phóng nguồn lực
Tại phiên họp chiều 20/10, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình trình bày Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ 2021-2026 của Chính phủ. Trong nhiệm kỳ, Chính phủ và Thủ tướng đã ban hành 116 chương trình, kế hoạch hành động để tổ chức thi hành Hiến pháp, pháp luật, nghị quyết, kết luận của Đảng và Quốc hội; hơn 400 chuyến công tác của Thủ tướng và các Phó Thủ tướng trực tiếp kiểm tra cơ sở, tháo gỡ vướng mắc.
![]() |
| Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình trình bày Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ 2021-2026 của Chính phủ. Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Kỷ luật, kỷ cương hành chính được siết chặt; phân cấp, phân quyền theo phương châm “địa phương quyết - địa phương làm - địa phương chịu trách nhiệm”, gắn với phân bổ nguồn lực phù hợp và tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực. Chính phủ chuyển mạnh từ “quản lý” sang “kiến tạo phát triển”, từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, coi đây là đột phá thể chế.
Kết quả lập pháp, lập quy đạt quy mô lớn nhất từ trước tới nay: 45 phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật; 180 luật, pháp lệnh, nghị quyết được thông qua (tính cả kỳ họp này); 1.400 nghị quyết, 820 nghị định của Chính phủ; gần 3.600 văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng, bộ ngành ban hành theo thẩm quyền. Qua đó hình thành cơ sở pháp lý đồng bộ cho quản trị và phát triển đất nước.
Về điều hành kinh tế - xã hội: kinh tế vĩ mô ổn định, phối hợp chính sách tiền tệ linh hoạt với tài khóa mở rộng hợp lý; đẩy mạnh giải ngân đầu tư công; kiểm soát nợ công, bội chi trong giới hạn. Quy mô nền kinh tế tăng từ 346 tỷ USD (thứ 37) lên 510 tỷ USD (thứ 32); thu nhập bình quân đầu người từ 3.552 USD lên khoảng 5.000 USD, đưa Việt Nam vào nhóm nước thu nhập trung bình cao.
Ứng phó COVID-19 linh hoạt, hiệu quả thông qua ngoại giao vắc xin, tiêm chủng miễn phí toàn dân, sớm chuyển trạng thái “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả” để mở cửa nền kinh tế.
An sinh xã hội được bảo đảm: chi 1,1 triệu tỷ đồng (khoảng 17% tổng chi NSNN); xóa trên 334 nghìn nhà tạm, dột nát (về đích sớm 5 năm 4 tháng); phê duyệt, thúc đẩy nhà ở xã hội; khắc phục thiên tai, ổn định đời sống. Các chương trình mục tiêu quốc gia cơ bản hoàn thành chỉ tiêu: 79,3% xã đạt chuẩn nông thôn mới; tỷ lệ nghèo đa chiều giảm từ 4,4% xuống 1,3%; chương trình vùng dân tộc thiểu số và miền núi hoàn thành, vượt 6/9 nhóm mục tiêu.
Hạ tầng chiến lược bứt phá: dự kiến đến cuối 2025 hoàn thành 3.245 km cao tốc và 1.711 km đường ven biển; đẩy nhanh các công trình trọng điểm như sân bay Long Thành, đường dây 500 kV mạch 3. Hạ tầng số phát triển mạnh, tốc độ Internet di động vào nhóm 20 thế giới.
Giáo dục, y tế, văn hóa tiến bộ rõ rệt: bao phủ BHYT 95,2% dân số; HDI tăng 18 bậc; tháo gỡ vướng mắc đấu thầu thuốc, thanh quyết toán BHYT; trình nhiều nghị quyết lớn về khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, y tế, giáo dục; triển khai miễn, giảm học phí từ năm học 2025–2026; phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp.
Quốc phòng, an ninh được giữ vững; xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; phòng chống tội phạm đạt kết quả tích cực. Đối ngoại, hội nhập được nâng tầm, nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam, mở ra cục diện phát triển mới.
Tài nguyên – môi trường, phòng chống thiên tai, biến đổi khí hậu được chú trọng: hoàn thiện pháp luật quản lý đất đai và nguồn lực; chuyển trạng thái từ bị động sang phòng ngừa sớm, từ xa; ứng phó thiên tai, mưa lũ, sạt lở hiệu quả.
Xử lý tồn đọng kéo dài: tập trung giải quyết tổ chức tín dụng yếu kém, dự án thua lỗ; tháo gỡ vướng mắc cho hàng nghìn dự án, cơ sở nhà đất, đưa nguồn lực trở lại phục vụ phát triển. Sắp xếp bộ máy tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực; cải cách thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công trực tuyến không phụ thuộc địa giới cấp tỉnh; Cổng dịch vụ Công Quốc gia vận hành như một “cửa sổ” tập trung.
12 nhiệm vụ trọng tâm để vững bước trong kỷ nguyên mới
Để hiện thực hóa mục tiêu đến 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến 2045 là nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng XHCN, Chính phủ xác định 12 trọng tâm:
Thứ nhất tiếp tục hoàn thiện sắp xếp tổ chức bộ máy, chính quyền địa phương 2 cấp theo hướng tinh gọn, hiệu quả.
Thứ hai toàn thiện thể chế, pháp luật; huy động mọi nguồn lực; đẩy mạnh CCHC, cắt giảm TTHC, nâng chất lượng dịch vụ công trực tuyến.
Thứ ba thúc đẩy tăng trưởng cao gắn với ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm cân đối lớn.
Thứ tư đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, cơ cấu lại nền kinh tế, bứt phá KH-CN, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số.
Thứ năm phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; khai thác không gian phát triển mới; đô thị là động lực vùng; xây dựng nông thôn mới.
Thứ sáu xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Thứ bảy phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và sức khỏe nhân dân.
Thứ tám quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên; bảo vệ môi trường; ứng phó BĐKH, phòng chống, giảm nhẹ thiên tai.
Thứ chín củng cố quốc phòng - an ninh, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường hòa bình, ổn định.
Thứ mười nâng hiệu quả đối ngoại, hội nhập quốc tế, trọng tâm ngoại giao kinh tế; phát huy vai trò, vị thế, uy tín Việt Nam.
Thứ mười một kiên quyết, kiên trì phòng chống tham nhũng, tiêu cực; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; đẩy mạnh tiếp dân, giải quyết KN-TC.
Thứ mười hai tăng cường thông tin - truyền thông, tạo đồng thuận xã hội; đấu tranh với quan điểm sai trái, thù địch, định hướng thông tin sai lệch.
Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình khẳng định: kết quả đạt được trong nhiệm kỳ 2021-2026 là minh chứng cho tinh thần đoàn kết - kỷ cương - hành động - sáng tạo - hiệu quả của Chính phủ; là nền tảng để Việt Nam vững bước tiến vào kỷ nguyên mới với thế - đà - lực mới: kinh tế vĩ mô ổn định, an sinh bảo đảm, thể chế đổi mới, hạ tầng bứt phá, quốc phòng - an ninh vững chắc, vị thế quốc tế nâng cao.
Thu Uyên (tổng hợp)








Bình luận